Sự việc đưa nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông của Trung Quốc không chỉ vi phạm luật pháp quốc tế, mà còn cho thấy nhiều toan tính của Trung Quốc. Báo Giao thông trao đổi với ông Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ để làm rõ hơn vấn đề này.
Chiến thuật “gặm nhấm”
Vừa qua, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã ra tuyên bố khẳng định nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông. Ông có bình luận gì về động thái của Trung Quốc lần này?
Khi điều động nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 vượt hàng nghìn hải lý từ lục địa Trung Quốc xuống hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam lần này, Trung Quốc nhằm đạt nhiều mục tiêu.
Thứ nhất, về pháp lý, họ quyết tâm hợp thức hóa yêu sách “đường lưỡi bò” chiếm trên 90% diện tích Biển Đông, bằng lập luận ngụy biện rằng các thực thể địa lý là những bãi ngầm, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và trên thềm lục địa phía Nam Biển Đông của các nước ven biển Đông đều là bộ phận của “quần đảo Nam Sa của Trung Quốc” (tức quần đảo Trường Sa của Việt Nam).
Theo đó, Trung Quốc xem bãi Tư Chính là một phần của quần đảo Nam Sa thuộc “chủ quyền bất khả xâm phạm” của họ. Nhưng lập luận ngụy biện này hoàn toàn trái ngược với những quy định của UNCLOS 1982 và đặc biệt đã bị Phán quyết Tòa Trọng tài quốc tế The Haye năm 2016 bác bỏ.
Từ ngày 3/7 đến nay, Trung Quốc đưa tàu khảo sát địa chất Hải dương 8 cùng tàu bảo vệ bờ biển vũ trang và máy bay trực thăng hộ tống vào khu vực bãi cạn Tư Chính, Vũng Mây, Quế Đường, Huyền Trân… cách đường cơ sở thẳng dùng để tính chiều rộng lãnh hải ven bờ lục địa Việt Nam công bố năm 1982 dưới 200 hải lý, thậm chí có khu vực ở cách đường bờ biển ven bờ lục địa đối diện xấp xỉ trên dưới 200 hải lý.
Đây là vùng biển hoàn toàn thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao nước ta Lê Thị Thu Hằng đã ra tuyên bố phê phán hành động cố tình vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền của Việt Nam; vi phạm các thỏa thuận song phương về hợp tác ở Biển Đông mà Việt Nam và Trung Quốc đã ký kết và công bố; vi phạm thô bạo luật pháp quốc tế.
Thứ hai, Trung Quốc đang thực hiện chiến lược độc chiếm Biển Đông, dùng Biển Đông làm bàn đạp vươn lên vị trí siêu cường quốc tế trong cuộc cạnh tranh với Mỹ tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Trung Quốc đã tiến hành xâm chiếm bằng vũ lực quần đảo Hoàng Sa, một phần quần đảo Trường Sa của Việt Nam, sau đó biến 6 thực thể này thành các đảo nhân tạo rất lớn và đang từng bước quân sự hóa bằng các thiết bị hải, lục, không quân hiện đại. Đồng thời, họ tiếp tục triển khai chiến thuật “gặm nhấm” đối với các thực thể địa lý là những bãi ngầm, rạn san hô nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa hợp pháp của các quốc gia ven Biển Đông, như những gì đã xảy ra ở Đá Vành Khăn năm 1995, bãi cạn Scarborough 2012, Bãi Cỏ Mây…
Đáng chú ý, Trung Quốc đã và đang mở rộng hoạt động phi pháp này bằng cách huy động lực lượng tàu thuyền đến hoạt động tại khu vực bãi cạn James cách bờ biển Malaysia chỉ 80km, Bãi Cỏ Rong ở phía Đông quần đảo Trường Sa, cách Philippines dưới 200 hải lý. Và gần đây nhất, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở phía Nam Biển Đông.
Việt Nam khẳng định đó là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình, trong khi Trung Quốc lại biện minh rằng, khu vực mà nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 đang hoạt động lại nằm trong phạm vi “quần đảo Nam Sa” thuộc lãnh thổ của Trung Quốc. Vậy, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ở khu vực phía Nam Biển Đông được xác định cụ thể như thế nào, thưa ông?
Ngày 19/7/2019, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đã khẳng định: “Nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông… “.
Qua nghiên cứu, đối chiếu với những quy định của UNCLOS 1982, Luật Biển Việt Nam năm 2012, cũng như các tiền lệ luật pháp, đặc biệt là Phán quyết của Tòa Trọng tài quốc tế The Haye năm 2016, tôi đánh giá lời khẳng định phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam là thuyết phục, có căn cứ pháp lý rõ ràng. Bởi vì, khu vực phía Nam Biển Đông được đề cập là khu vực bãi cạn Tư Chính, Vũng Mây, Quế Đường, Huyền Trân… ở cách đường cơ sở thẳng dùng để tính chiều rộng lãnh hải ven bờ lục địa Việt Nam công bố năm 1982 dưới 200 hải lý, thậm chí có khu vực ở cách đường bờ biển ven bờ lục địa dưới 200 hải lý.
Tôi chỉ nhấn mạnh đến khái niệm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý ở khu vực này; bởi vì còn có ranh giới ngoài của thềm lục địa có thể mở rộng ra đến 350 hải lý, nếu có hồ sơ chứng minh bờ ngoài của thềm lục địa kéo dài ra ngoài giới hạn 200 hải lý và được Tiểu ban ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp quốc chấp nhận.
Không lúc nào được lơ là, chủ quan
Với những căn cứ pháp lý này, các quốc gia ven biển có những quyền gì đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình?
Theo UNCLOS 1982 mà cả Việt Nam và Trung Quốc đều đã phê chuẩn, quốc gia ven biển thực thi quyền chủ quyền và quyền tài phán trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình có nghĩa vụ tôn trọng quyền lợi của các quốc gia khác, không được có hành vi cản trở quyền tự do hàng hải và tự do hàng không của tàu thuyền và các phương tiện bay, quyền tự do đặt cáp và ống dẫn dầu ngầm; không được có hành vi phân biệt đối xử trong việc các quốc gia khác thực hiện các quyền được UNCLOS 1982 quy định.
Vì vậy, Việt Nam đã và đang tiến hành thăm dò khai thác dầu khí, đã xây dựng các cụm dịch vụ mang tên DK, phù hợp với các quy định về quyền và nghĩa vụ của quốc gia ven biển theo Điều 60, Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển 1982, quy định về các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trong vùng đặc quyền kinh tế và Điều 80 quy định về các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình ở thềm lục địa.
Việt Nam có đặc quyền tiến hành xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác và sử dụng các thiết bị và công trình dùng vào mục đích được trù định ở Điều 56 của UNCLOS 1982 hoặc các mục đích kinh tế khác trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Việt Nam tuyên bố không cố ý biến các bãi ngầm ở thềm lục địa phía Nam thành đảo nổi và không ghép chúng vào quần đảo Trường Sa, đồng thời bác bỏ sự gán ghép này.
Ông dự báo tình hình ở vùng biển phía Nam Biển Đông sắp tới như thế nào?
Do phản ứng quyết liệt, nhưng có tình có lý của Việt Nam và một số nước, có thể nhóm tàu Trung Quốc sẽ rút đi, với lý do là hoàn thành một đợt nghiên cứu hoặc một lý do nào đó. Nhưng chúng ta không thể lơ là, chủ quan, bởi có thể đây chỉ là bước thăm dò cuối cùng trước khi họ có những hành động quyết liệt nhằm hiện thực hóa mưu đồ biến Biển Đông thành ao nhà, biến vùng không có tranh chấp thành có tranh chấp.
Đây không phải là lần đầu tiên, cũng chưa chắc là lần cuối cùng Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Theo ông, Việt Nam nên ứng xử như thế nào và phải làm những gì?
Sau khi chúng ta đã công khai yêu cầu Trung Quốc rút các tàu vi phạm tại vùng biển Nam Biển Đông, nếu Trung Quốc vẫn tiếp tục thì Việt Nam nên sử dụng hình thức đấu tranh cao hơn về mặt ngoại giao.
Trước hết, Việt Nam nên xúc tiến việc thu thập hồ sơ, bằng chứng có liên quan đến các vi phạm của Trung Quốc, như tọa độ nơi xảy ra vi phạm, các bằng chứng về việc thăm dò, nghiên cứu, các hoạt động gây hấn của các tàu vũ trang của Trung Quốc… để lập hồ sơ pháp lý cho những bước đấu tranh ngoại giao pháp lý tiếp theo. Việt Nam có thể gửi lên các tổ chức liên quan của Liên Hợp quốc, đưa vụ việc ra các cơ quan tài phán quốc tế.
Trên thực địa, các lực lượng chấp pháp cần cảnh giác, kiềm chế, hành xử theo đúng thủ tục pháp lý hiện hành; không mắc bẫy khiêu khích của Trung Quốc để họ kiếm cớ gây đụng độ vũ trang, gây bất ổn, làm ảnh hưởng đến các hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý.
Khi áp dụng các biện pháp để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trên biển, các lực lượng chấp pháp của Việt Nam cũng phải hết sức thận trọng và phải cân nhắc kỹ, tuyệt đối không xử lý theo cảm xúc, chủ quan, tạo cớ để Trung Quốc nhanh chóng thực hiện mục tiêu chiến lược của họ.
Điều này còn là bài học, lời cảnh tỉnh đối với những công dân bình thường, nên cảnh giác và tránh bị kích động khi tiếp cận với những thông tin không được kiểm chứng, gây bất ổn về chính trị, làm xáo trộn, ảnh hưởng đến môi trường sống yên lành. Vấn đề này cũng cần thông tin kịp thời, chuẩn xác, rõ ràng, định hướng tốt cho dư luận trong bối cảnh có nhiều thông tin thiếu kiểm chứng đang tràn ngập trên các mạng xã hội hiện nay.
Chúng ta cũng cần công khai các thông tin đúng sự thật, nói rõ đúng sai, thượng tôn pháp luật, thể hiện thiện chí và trách nhiệm của Việt Nam đối với khu vực và thế giới, góp phần tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhiều người Việt ở nước ngoài, cũng như cộng đồng quốc tế.
Cảm ơn ông!
Việt Nam trao công hàm phản đối tàu Trung Quốc vi phạm vùng đặc quyền kinh tế
Tại cuộc họp báo hôm qua (25/7), Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng cho biết, Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông, đồng thời hoan nghênh đóng góp tích cực của cộng đồng quốc tế.
“Về vụ việc nghiêm trọng này, chúng tôi đã đề cập nhiều lần trong các phát biểu trước đây. Việt Nam kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán đã được xác lập tại Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) bằng các biện pháp hoà bình, trên cơ sở của luật pháp quốc tế”, bà Hằng nói.
Tuyên bố được bà Hằng đưa ra khi trả lời câu hỏi về các biện pháp của Việt Nam sau khi nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 trong những ngày qua có các hoạt động vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông.
Người phát ngôn nêu rõ Việt Nam đã có nhiều biện pháp giao thiệp ngoại giao phù hợp, trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc, yêu cầu rút ngay khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Các lực lượng chức năng của Việt Nam đã triển khai các biện pháp phù hợp, đúng pháp luật.
Đây là lần thứ ba trong vòng 10 ngày qua người phát ngôn Bộ Ngoại giao lên tiếng phản đối hành động vi phạm vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam của nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc. Trong họp báo hôm 19/7, bà Hằng kiên quyết yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam.
L.C
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận