Bỏng nổ |
Cành già màu nâu sẫm; lá mỏng, nguyên, có kích thước và hình dạng thay đổi, thường hình bầu dục, thuôn đầu, nhọn gốc. Cây đơn tính khác gốc. Hoa nhỏ mọc thành từng cụm ở kẽ lá. Ở nước ta, cây mọc hoang trong rừng thưa, ở chỗ dãi nắng ven đường. Thành phần hoá học: Alcaloid (securinin), tanin. Người dân thường dùng vỏ thân và rễ mang về phơi khô; sắc lấy nước có thể diệt trùng, rút mủ, trị mủ vàng, mụn bọc trắng. Nếu bị thương vì đồ sắt sét gỉ lưu lại ở trong vết thương thì dùng cành lá giã đắp có thể rút ra được.
Ở Ấn Độ, người ta dùng lá cùng với lá thuốc lá giã thành bột đắp ở vết loét. Rễ chữa sốt nóng, khát nước, chóng mặt, chân tay run. Rễ bỏng nổ còn được dùng làm thuốc trị bệnh lậu. Vỏ thân và vỏ rễ được dùng làm thuốc trừ sâu. Cách dùng, liều lượng: Rễ thái mỏng, phơi sấy khô sao vàng. Ngày uống 6-12g dạng nước sắc.
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận