Tổ bay Bích - Đương - Kỳ đã thực hiện bốn chuyến bay đưa Bác Hồ đi chữa bệnh nước ngoài từ năm 1967-1968 trên trực thăng MI 4 (ảnh do phi công Công Doãn Đương cung cấp) |
Bốn lần đưa Bác đi chữa bệnh ở nước ngoài
Đã 38 năm trôi qua nhưng những ký ức về bốn lần lái máy bay đưa Bác Hồ đi chữa bệnh ở nước ngoài của Đại tá phi công Công Doãn Đương vẫn còn nguyên vẹn, rõ đến từng chi tiết.
Vừa chậm rãi lần giở những tấm ảnh kỷ niệm một thời bom đạn chiến trường, Đại tá Công Doãn Đương vừa kể lại những ngày tháng “không thể mờ phai” trong cuộc đời người cựu phi công. Khi đó, vào tối muộn 15/9/1967, phi công Công Doãn Đương lúc ấy mới ngoài 20 tuổi đã vô cùng sung sướng, vinh dự khi được giao nhiệm vụ cùng tổ bay (ba người, trong đó Đương là phụ lái kiêm dẫn đường) thuộc Tiểu đoàn 4, Trung đoàn Không quân vận tải 919 đưa Bác Hồ đi chữa bệnh ở Trung Quốc (bay từ Hà Nội lên Sân bay Nội Bài rồi chờ máy bay của Trung Quốc sang đón Bác).
“Lúc này Bác đã rất mệt, không thể tự đi được mà phải nằm cáng. Người khiêng Bác lúc bấy giờ là ông Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam và Thiếu tướng Trần Kim Chi, Cục trưởng Cục Bảo vệ quân đội. Đi đằng sau là ông Vũ Kỳ - thư ký riêng của Bác, cầm ba toong và ôm một chiếc cặp. Cùng đi còn có ông Lê Văn Lương, lúc bấy giờ là Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương” - người Đại tá già nhớ lại. Chuyến bay đầu tiên với Bác không dài nhưng cũng đủ khiến ông thấm thía tấm lòng của Bác.
Ông Đương kể, lúc đó, trời đã rất khuya. Đang ngồi đợi máy bay của nước bạn sang đón Bác tại Sân bay Nội Bài, Bác quay sang anh em tổ bay chúng tôi nói: “Các chú đi với Bác từ sớm chắc chưa kịp ăn. Giờ đã rất muộn rồi, chắc các chú cũng đói và mệt lắm”. Rồi Bác quay sang bảo đồng chí Tám lấy phích sữa ra cho anh em uống (đi theo Bác hồi đó lúc nào cũng có hai người. Một là đồng chí Chiến, lúc nào trên tay cũng có một chiếc mũ sắt phòng khi có báo động thì đội cho Bác. Người còn lại là đồng chí Tám, đi đâu cũng xách hai phích, một phích nước và một phích sữa để Bác tiện dùng). Lúc này, đồng chí Tám nói: “Bao giờ Bác lên máy bay lớn đi Trung Quốc, ở nhà cháu sẽ đưa các anh ấy uống”.
Đại tá phi công Công Doãn Đương, sinh năm 1942, tại Hà Nội. Sau khi Bảo tàng Hà Nội khánh thành, Đại tá Công Doãn Đương đã tình nguyện hiến tặng Bảo tàng chiếc cặp bay cùng sơ đồ chuyến bay của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 15/9/1967 khi ông cùng tổ bay thuộc Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 919 đưa Chủ tịch Hồ Chí Minh đi chữa bệnh ở nước ngoài. |
Khi máy bay phía Trung Quốc đến, mọi người đã khiêng Bác được một đoạn, Bác còn cố quay lại nhắc đồng chí Tám nhớ đưa các chú phi công uống sữa”, ông Đương nghẹn ngào kể. “Cả đời tôi sẽ không thể quên được ly sữa của Bác hôm đó. Bác mệt thế, yếu thế nhưng vẫn không quên lo lắng cho anh em chúng tôi”, Đại tá già tiếp lời trong nước mắt và kể, đó là lần đầu tiên ông được phục vụ Bác, nhưng lại là lần thứ hai được gặp Bác, được nói chuyện với Bác”.
“Lần đầu tôi gặp Bác là năm 1957, khi Bác về thăm nhà ông nội tôi, cũng là cơ sở in bí mật của báo Cờ Giải phóng. Trước đó, năm 1941, đồng chí Trường Chinh lúc bấy giờ đang phụ trách tờ báo, đã chọn nhà của ông nội tôi là cơ sở in báo Cờ Giải phóng”, ông Đương kể.
Tấm ảnh chụp cảnh Bác Hồ rảo bước trên đường dẫn vào cơ sở in báo Cờ Giải phóng mà sau này ông xin chụp lại từ Bảo tàng Hồ Chí Minh được ông phóng to và treo trang trọng trong căn nhà đang ở bây giờ tại Phú Thượng, Hà Nội. Trong ảnh, cậu bé Công Doãn Đương khi đó mới 15 tuổi, đang nhanh nhảu chạy theo Bác trên con đường làng. Ít ai ngờ, 10 năm sau, cậu bé nhỏ con ngày nào đã trở thành anh phi công trẻ, được vinh dự chọn lái máy bay phục vụ Bác Hồ.
Chuyến thứ hai bay phục vụ Bác cũng chính là lần ông đón Bác chữa bệnh về nước, một tuần trước khi bước sang năm 1968. Theo Đại tá Đương: “Đó là ngày 23/12/1967, lúc này, Bác đã khoẻ hơn nhiều, có thể tự đi lại được. Trong lần về nước này, Bác đã trao huy hiệu cho các phi công bắn rơi máy bay và lãnh đạo Phòng không - Không quân, trong đó có ông Phùng Thế Tài, Tư lệnh đầu tiên của Quân chủng Phòng không - Không quân”.
Tối hôm Bác quay trở lại Trung Quốc để tiếp tục chữa bệnh (tối mùng 1 tháng Giêng năm 1968, cũng là lần thứ ba Đại tá Công Doãn Đương được lái máy bay chở Bác). Lúc đang ngồi trong máy bay, trên đường băng tại Sân bay Nội Bài, chờ máy bay phía Trung Quốc đến đón, ông Đặng Tính lúc bấy giờ là Tư lệnh, kiêm Chính uỷ của Phòng không - Không quân lên xin huy hiệu Bác.
Ông Tính nói: “Thưa Bác, hôm nay cháu đi kiểm tra chiến đấu ở trên này, biết máy bay của Bác vẫn đang kẹt lại đây vì thời tiết xấu, cháu vào thăm Bác và muốn xin Bác một cái huy hiệu”. Bác bảo: Chú vừa là Chính ủy, vừa làm Tư lệnh, hãy cố gắng động viên bộ đội, bắn rơi nhiều máy bay, khi về Bác sẽ tặng cho. Các chú lái trực thăng cho Bác được ba chuyến an toàn, Bác cũng sẽ tặng mỗi chú một huy hiệu. “Chú Kỳ thống kê lại cho Bác để lần sau về Bác sẽ tặng”, Bác nói.
“Trong lần thứ ba chở Bác đi chữa bệnh này, anh em có dịp nói chuyện nhiều hơn do phải chờ máy bay của nước bạn đến muộn vì lý do thời tiết. Lúc ngồi trên máy bay giữa đường băng, Bác ngồi giữa, đẹp như một ông tiên. Xung quanh là anh em tổ bay, ông Đặng Tính, ông Phùng Thế Tài, ông Vũ Kỳ… Bác hỏi rất nhiều về đời sống, về gia đình… Biết được tôi có người yêu đang làm ở Bệnh viện 108, trong lần trở về kế tiếp vào ngày 23/4/1968, cũng là lần cuối cùng tôi được phục vụ Bác, Bác vẫn nhớ và gửi quà cho người yêu tôi, cũng là vợ của tôi bây giờ. Nếu như cả ba lần bay trước, chúng tôi đều đi vào ban đêm thì trong lần cuối cùng này lại là một chuyến bay ban ngày. Đón Bác lần này có cả ba đồng chí lãnh đạo cấp cao lúc đó là đồng chí Trường Chinh, đồng chí Lê Duẩn và đồng chí Phạm Văn Đồng”, Đại tá Đương nhớ lại.
Đại tá phi công Công Doãn Đương thời trẻ và hiện nay |
Tấm bằng Đỏ và nhiệt huyết của chàng phi công trẻ
Con đường trở thành phi công của Đại tá Công Doãn Đương cũng rất tình cờ. Năm 1961, khi đang học cấp III tại trường Xuân Đỉnh, cậu thanh niên 19 tuổi Công Doãn Đương bất ngờ trúng tuyển phi công sau một kỳ sơ tuyển ngay tại trường.
Ba năm sau đó là thời gian ông miệt mài học tập tại Trường Đào tạo không quân tại Liên Xô. Tốt nghiệp khoá đầu tiên của trường, cầm trong tay tấm bằng Đỏ, Công Doãn Đương trở về nước và tiếp tục đi học bổ túc ở Trung đoàn 910 cũ tại Cát Bi.
Sau đó, ông vừa bay phục vụ chiến đấu, vừa bay phục vụ chuyên cơ tại Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 919. Năm 1965, ông tiếp tục học bổ túc ở trường hàng không về dẫn đường. Cũng sau khoá học này, phi công Công Doãn Đương được đảm nhiệm hai nhiệm vụ, vừa lái máy bay, kiêm hoa tiêu dẫn đường.
“Trước đây, trên tổ bay của Mi 4 có bốn người, tuy nhiên, sau khi tôi tốt nghiệp khoá đào tạo dẫn đường hàng không, tôi vừa đảm nhiệm vị trí lái phụ, vừa kiêm luôn việc dẫn đường nên tổ lái rút lại chỉ còn ba người”, ông Đương cho biết thêm, trong suốt cuộc đời làm phi công của mình, ông có quá nhiều kỷ niệm, buồn có, vui có, xúc động có, nguy hiểm cận kề cũng có. Nhưng hơn hết là ước mơ được bay lên bầu trời, may mắn được lái máy bay chở Bác, được sống và tận hiến.
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận